Một số trang web hỗ trợ viết bài luận chuyên nghiệp 2.1. Plagiarism Checker ( ) Trang web này hỗ trợ check đạo văn cho các bạn. Vấn đề trùng lặp ý tưởng là một vấn đề rất quan trọng và được quan tâm nhiều nhất hiện nay. Chắc chắn bạn cũng không muốn ý tưởng và công sức bị copy đúng không nào.
Câu hỏi trang 63 SGK Ngữ văn 10 tập 2: Thực hành viết bài nghị luận đánh giá tác phẩm truyện (Chủ đề và nhân vật trong tác phẩm truyện) Trả lời: Dàn ý. 1. Mở bài - Giới thiệu ngắn gọn về tác giả Nguyễn Quang Sáng. - Giới thiệu khái quát truyện ngắn Chiếc lược ngà
Tìm kiếm cho: Trang chủ; Văn 2 Dẫn chứng về lòng dũng cảm cho bài văn nghị luận về lòng dũng cảm vanhay 10/08/2019. Ý nghĩa của tình huống truyện trong việc phát triển nội dung chủ đề trong truyện ngắn Vợ nhặt. Nghị luận xã hội: Can đảm là đức hạnh lớn nhất
0.0.1 Hướng dẫn cách tìm ý cho bài văn nghị luận, khắc phục lỗi viết lan man không trọng tâm. 1 Bước 1: Đọc kĩ đề bài; 2 Bước 2: Tìm ý cho bài văn. 3 Bước 3: Tìm luận cứ; Hướng dẫn cách tìm ý cho bài văn nghị luận, khắc phục lỗi viết lan man không trọng tâm.
Vay Tiền Online Chuyển Khoản Ngay. Bạn đang xem tài liệu "Phân tích đề, lập dàn ý trong Văn nghị luận", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênPHÂN TÍCH ĐỀ, LẬP DÀN Ý TRONG VĂN NGHỊ LUẬN A. Phân tích đề, tìm hiểu đề - Đọc kĩ đề, chú ý từng từ, khái niệm khó, nghĩa đen, nghĩa bóng của từ nhữ, nghĩa tường minh, nghĩa hàm ẩn của câu, đoạn. Chia vế, ngăn đoạn, tìm hiểu mối tương quan giữa các vế song song, chính phụ, nhân quả, tăng tiến, đối lập... - Nhiệm vụ của phân tích đề là phải xác định cho được ba yêu cầu sau đây * Vấn đề cần nghị luận là gì? Có bao nhiêu ý cần triển khai? Mối quan hệ giữa các ý như thế nào? * Sử dụng thao tác lập luận gì là chính? Đề học sinh giỏi thường yêu cầu sử dụng tổng hợp các thao tác, nhưng còn tùy thuộc vào lĩnh vực kiến thức mà thiên về thao tác nào là chính. Nếu liên quan đến tác phẩm thì chủ yếu phân tích - chứng minh, nếu liên quan đến lí luận văn học thì chủ yếu giải thích - bình luận ... * Vùng tư liệu được sử dụng cho bài viết tác gia, trào lưu, giai đoạn, thời kỳ văn học; trong nước hay thế giới. Đây là nhiệm vụ đầu tiên trước khi làm bài có ý nghĩa quyết định đến chất lượng bài viết, thế nhưng nhiều chưa ý thức được vai trò của khâu tìm hiểu đề này. Đôi khi có đầu tư đúng mức nhưng vẫn không xác định đủ và đúng yêu cầu của đề ra. Bởi lẽ, ở dạng đề tường minh các em thường có tâm lý chủ quan dẫn đến hiểu chưa đầy đủ yêu cầu và định hướng của đề bài, còn có lý do là kiến thức nền tảng chưa vững chắc dẫn đến việc tổ chức lập luận còn lỏng lẽo, thiếu ý, thừa ý; ở dạng đề hàm ẩn nếu thiếu đầu tư suy nghĩ thì việc xác định luận đề rất khó khăn, nếu không cẩn thận sẽ dẫn đến tình trạng chệch hướng, thậm chí lạc đề. Vậy không nên phỏng đoán rồi viết ẩu. Cần phải đầu tư thích đáng cho khâu này. Dạng đề hàm ẩn thường liên quan đến vấn đề lý luận, dĩ nhiên trên cơ sở phân tích những tác phẩm cụ thể. Nếu đề có cách nói bóng bẩy thì phải xem xét nó thuộc lĩnh vực kiến thức nào của lý luận văn học. Chung qui lại vẫn là phạm vi kiến thức mà ta đã học. Ví dụ đề bài năm 1997- bảng B "Văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người". Hãy bình luận ý kiến trên. Đề này đề cập đến chức năng giáo dục của văn học. Trên cơ sở hiểu biết về đơn vị kiến thức trên mà tổ chức lập luận. B. Lập dàn ý Sau khi xác định được nội dung luận đề phải tổ chức lập luận, lập được dàn bài hợp lý là thỏa mãn yêu cầu của đề bài. Khâu này tùy thuộc rất lớn vào kết quả phân tích đề. Nếu phân tích đề sai một ly thì dàn bài sẽ đi một dặm. Ít nhất là các em phải vạch ra được những ý lớn, những luận điểm chính, trên cơ sở đó từng ý lớn phải cụ thể hóa thành nhiều ý nhỏ, thậm chí mỗi ý nhỏ nếu cần thì cụ thể hóa thành nhiều ý nhỏ hơn còn gọi là khía cạnh của ý nhỏ. I. Tác dụng của vệc lập dàn ý - Lập dàn ý giúp cho người viết lựa chọn, sắp xếp ý thành một hệ thống chặt chẽ và bao quát được nội dung cơ bản, nhờ đó mà tránh tình trạng lạc đề hoặc lặp ý, tránh được việc bỏ sót ý hoặc triển khai ý không cân xứng. - Có dàn ý người viết sẽ phân phối thời gian hợp lý khi viết bài II. Cơ sở lập ý Có hai cơ sở để xác lập ý - Trường hợp đề bài có nhiều ý thì dựa vào chỉ dẫn của đề nhưng phải xác định mối quan hệ giữa các ý, nhất là quan hệ chính phụ, không nên nhầm lẫn ý chính với ý phụ. Thường thì những đề này chỉ chứa những ý chính. Ví dụ đề bài Nguyễn Văn Siêu có viết " Văn chương ... có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người" Hãy bình luận ý kiến trên. Đề có hai ý tương đối rõ ràng. - Trường hợp đề bài chỉ có một ý. Đây là dạng phổ biến thường gặp ở những kỳ thi giỏi. Vậy thì căn cứ vào đâu để xây dựng được hệ thống lập luận gồm những ý lớn ý nhỏ? Hoàn toàn lệ thuộc vào vốn kiến thức của bạn! Nếu có chút lúng túng thì hãy chú ý đến nội hàm của khái niệm nếu có hoặc hiểu cái ý ngầm đằng sau những lời văn là gì... III. Cách lập dàn ý bài văn nghị luận 1. Xác định các luận điểm ý lớn. - Đề bài có nhiều ý thì ứng với mỗi ý là một luận điểm. - Đề bài có một ý, thì ý nhỏ hơn cụ thể hoá ý đó được xem là những luận điểm. Nội dung kiến thức này ở trong bài học, tư liệu hoặc vốn tự có. 2. Tìm luận cứ ý nhỏ cho các luận điểm. Mỗi luận điểm cần cụ thể hoá thành nhiều ý nhỏ hơn gọi là luận cứ. Số lượng ý nhỏ và cách triển khai tuỳ thuộc vào ý lớn. Ý nhỏ có khi được gợi từ đề bài nhưng phần lớn là từ kiến thức của bản thân. 3. Lập dàn ý ba phần a. Mở bài Giới thiệu luận đề b. Thân bài Triển khai nội dung theo hệ thống các ý lớn, ý nhỏ đã tìm. c. Kết bài Tổng kết nội dung trình bày, liên hệ mở rộng, nâng cao vấn đề. Ví dụ đề bài năm 1997- bảng B "Văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người". Hãy bình luận ý kiến trên. Đề này đề cập đến chức năng giáo dục của văn học. Trên cơ sở hiểu biết về đơn vị kiến thức trên mà tổ chức lập luận. - Nói văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người là nói đến ý nghĩa tác động tích cực của văn học đối với người đọc, làm cho họ tốt hơn lên, biết sống nhân ái, nhân đạo. Khi đã nắm chắc nôi dung luận đề thì tiến hành xác lập ý lớn. Đề trên có thể triển khai thành những luận điểm như sau sao văn học lại có nhiệm vụ nhân đạo hóa? Do ý đồ sáng tạo của nhà văn, là chức năng cao cả của văn học. học thực hiện nhiệm vụ nhân đạo hóa bằng cách nào? - Đấu tranh vì một xã hội công bằng tốt đẹp. - Giúp con người tự nhận thức, tự hoàn thiện đạo đức nhân cách, tự chọn lối sống cách sống đẹp nhân ái. - Đôi khi văn học giúp con người có lối sống nhân đạo bằng lời đề nghị trực tiếp. 3. Có phải chỉ có văn học mới có chức năng giáo dục con người hay không? Gia đình, nhà trường, xã hội! Môn Giáo dục công dân Vậy đặc thù của văn học là gì? 4. Ý nghĩa vấn đề Đối với nhà văn. Đối với bạn đọc. CÁC THAO TÁC LẬP LUẬN TRONG VĂN NGHỊ LUẬN A. Khái niệm Thao tác được dùng để chỉ việc thực hiện những động tác theo trình tự và yêu cầu kỹ thuật nhất định. Thao tác lập luận là quá trình triển khai lí lẽ một cách lô gic nhằm phát hiện thêm một chân lí mới từ chân lí đã có. Phân biệt thao tác lập luận với các khái niệm khác - Yếu tố lập luận lí lẽ, chứng cứ, kết luận - Cách triển khai lập luận diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, nêu phản đề, so sánh, vấn đáp, phân tích nhân quả. - Phương tiện diễn đạt trong lập luận miêu tả, tự sự, thuyết minh B. Các thao tác lập luận I. Giải thích 1. Khái niệm GT là vận dụng tri thức để hiểu vấn đề nghị luận một cách rõ ràng và giúp người khác hiểu đúng ý của mình. Ví dụ 1 Chất thơ trong văn là gì? Trả lời Chất thơ còn gọi là chất trữ tình trong văn xuôi là chỉ thứ ngôn ngữ bóng bẩy, giàu cảm xúc và có tính nhạc trong lời văn, nhiều từ ngữ gợi chứ không tả. Đoạn văn mở đầu truyện "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam là khá tiêu biểu Ví dụ 2 Giải thích câu thơ sau Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng ND - TK Trả lời Đây là câu thơ thứ 3 và 4 của Truyện Kiều. Câu thơ thể hiện sự chiêm nghiệm phổ quát của đại thi hào về cõi nhân sinh chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Cuộc bể dâu là những đổi thay lớn lao bất ngờ ngoài sự toan tính và mong muốn của con người, gây ra nhiều nỗi đau thương. Trong cuộc vần xoay đó làm bật lên những thân phận bất hạnh khiến ND vô cùng thương xót, bất bình. Chinh phụ ngâm cũng có ý thơ gần như vậy Thuở trời đất nổi cơn gió bụi / Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên. 2. Cách làm - Giải thích cơ sở Giải thích từ ngữ, khái niệm khó, nghĩa đen, nghĩa bóng của từ - Trên cơ sở đó giải thích toàn bộ vấn đề, chú ý nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn Ví dụ Sự trong sáng của ngôn ngữ là kết quả của một cuộc phấn đấu. Trong và sáng dính liền nhau. Tuy nhiên, cũng có thể phân tích ra để cho được rõ nghĩa hơn nữa. Theo tôi nghĩ, sáng là sáng sủa, dễ hiểu, khái niệm được rõ ràng; thường thường khái niệm, nhận thức, suy nghĩ được rõ ràng thì lời diễn đạt ra cũng được minh bạch. Tuy nhiên, nhất là trong thơ, có rất nhiều trường hợp ý nghĩa sáng rồi, dễ hiểu rồi, nhưng lời diễn đạt còn thô, chưa được trong, chưa được gọn, chưa được chuốt. Do đó tôi muốn hiểu chữ sáng là nặng về nói nội dung, nói tư duy, và chữ trong là nặng nói về hình thức, nói diễn đạt và cố nhiên là nội dung và hình thức gắn liền. Cho nên phải phấn đấu cho được sáng nghĩa, đồng thời lại phải phấn đấu cho được trong lời, đặng cho câu thơ, câu văn trong sáng... Xuân Diệu II. Phân tích 1. Khái niệm Phân tích là chia tách đối tượng, sự vật hiện tượng thành nhiều bộ phận, yếu tố nhỏ để đi sâu xem xét kĩ lưỡng nội dung và mối liên hệ bên trong của đối tượng. Đối tượng phân tích trong bộ môn văn học một nhận định, văn bản, tác phẩm, một phần tác phẩm, nhân vật, các yếu tố cụ thể Tác dụng của phân tích là thấy được giá trị ý nghĩa của sự vật hiện tượng, mối quan hệ giữa hình thức với bản chất, nội dung. Phân tích giúp nhận thức đầy đủ, sâu sắc cái giá trị hoặc cái phi giá trị của đối tượng. Riêng đối với tác phẩm văn học, phân tích là để khám phá ba giá trị của văn học nhận thức, tư tưởng và thẩm mĩ. Yêu cầu phân tích phải nắm vững đặc điểm cấu trúc của đối tượng để chia tách một cách hợp lí. Sau khi phân tích tìm hiểu từng bộ phận, chi tiết phải tổng hợp khái quát lại để nhận thức đối tượng đầy đủ, sâu sắc và trình bày ngắn gọn. 2. Cách phân tích - Khám phá chức năng biểu hiện của các chi tiết Ví dụ 1 Trời thu xanh ngắt mấy từng cao Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nguyễn Khuyến Từ xanh ngắt gợi tả không gian trời thu cao xanh vời vợi, nền trời là một màu xanh ngăn ngắt. Màu xanh này gợi tả được cảnh trong veo và thật im vắng, yên tĩnh. Cụm từ mấy từng cao đã diễn tả không gian sâu thẳm vô cùng. Trên nền không gian bao la ấy, tác giả điểm xuyết một cành trúc. Từ láy lơ phơ giàu sức tạo hình, gợi tả cành trúc khẳng khiu, thanh mảnh, nhẹ nhàng, thưa thớt lá, đang đong đưa trong làn gió nhẹ của chiều thu. Nhờ cần trúc với dáng nét lơ phơ mà cảnh thu có vẻ đẹp duyên dáng thơ mộng, thanh thoát. Ví dụ 2 Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc lơ lửng, trữ tình Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương - Hình ảnh thơ chân thực, không gian gần gũi nhưng nhờ cách lựa chọn thời gian nên đã gợi tả được phong cảnh tuyệt vời. Đó là thời điểm ngày đã hết, nắng chiều đã lưng nương nhưng lần lữa như không muốn đi. Bóng hoàng hôn còn lưu luyến thì trăng đã nhô lên, đổ ánh sáng dịu dàng. Do đó cảnh thung lũng có sự giao hòa ánh sáng của mặt trời và mặt trăng, thứ ánh sáng dịu dàng, trong trẻo của trăng hoà với ánh sáng êm ả của hoàng hôn tạo ra một vừng sáng diệu kì như thực, như mơ. Chớp lấy khoảnh khắc lạ lùng, Tố Hữu đã đem đến cho thiên nhiên Việt Bắc một vẻ đẹp bình dị, mộng mơ làm say đắm lòng người. - Dùng phép liên tưởng để mở rộng nội dung ý nghĩa Ví dụ THoài giới thiệu nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ - Trước nhà thống lí Pá Tra, người ta lúc nào cũng thấy Mị ngồi quay sợi bên tảng đá cạnh tàu ngựa. - Lúc nào cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. -> Vị trí ngồi ấy cho thấy cuộc đời Mị như bị thít chặt trong kiếp ngựa trâu và khuôn mặt lột tả cõi lòng luôn mang nỗi đau buồn thầm lặng dai dẳng, triền miên. Nỗi buồn đông cứng như tảng đá vô tri và đè nặng lên đôi vai, lên cuộc đời Mị. Tác giả đã thể hiện nỗi buồn của Mị với giọng văn ngậm ngùi và chiều sâu cảm th ... để hiểu chắc chắn hơn và tìm hiểu tác dụng, ý nghĩa của vấn đề đối với bản thân và đời sống Phần kết bài nên nhấn mạnh lần nữa giá trị của vấn đề. Ví dụ 2 “Tiếng suối trong như tiếng hát xa” Nguyễn Du, Bạch Cư Dị so tiếng đàn với tiếng suối. Thế Lữ lại so tiếng hát trong với nước ngọc tuyền suối ngọc. Những người này không miêu tả trực tiếp tiếng suối. Chỉ có Nguyễn Trãi cho tiếng suối là tiếng đàn cầm. Có lẽ đó là hình ảnh gần nhất với hình ảnh trong câu thơ này. Có thể chẳng phải ngẫu nhiên. Nguyễn Trãi sành âm nhạc. Bác Hồ cũng thích âm nhạc. Tiếng hát của một danh ca Pháp từng thích nghe thời trẻ, đến tuổi bảy mươi Bác còn nhờ chị Mađơlen Rípphô tìm lại hộ. Tiếng suối ngàn của đất nước hay đó là tiếng hát của trái tim người nghệ sĩ yêu đời. Lê Trí Viễn VI. Bác bỏ 1. Khái niệm Bác bỏ là chỉ ra ý kiến sai trái của vấn đề trên cơ sở đó đưa ra nhận định đúng đắn và bảo vệ ý kiến lập trường đúng đắn của mình. 2. Yêu cầu của thao tác lập luận bác bỏ - Muốn bác bỏ một ý kiến sai thì phải dẫn đầy đủ ý kiến đó. Sau đó làm sáng tỏ hai phương diện sai ở chỗ nào và vì sao như thế là sai. Trả lời vì sao như thế là sai, đó chính là thao tác lập luận bác bỏ. - Để khẳng định ý kiến sai cần xem xét ba yếu tố luận điểm, luận cứ, luận chứng. - Bác bỏ ý kiến sai là dùng lý lẽ và dẫn chứng để phân tích, lí giải tại sao như thế là sai. * Lưu ý Trong thực tế, một vấn đề nhiều khi có mặt đúng, mặt sai. Vì vậy, khi bác bỏ hoặc khẳng định cần cân nhắc, phân tích từng mặt để tránh tình trạng khẳng định chung chung hay bác bỏ, phủ nhận tất cả. 3. Cách sử dụng Bác bỏ một ý kiến sai có thể thực hiện bằng nhiều cách bác bỏ luận điểm, bác bỏ luận cứ, bác bỏ cách lập luận hoặc kết hợp cả ba cách. a. Bác bỏ luận điểm thông thường có hai cách bác bỏ - Dùng thực tế để bác bỏ Nếu luận điểm đi ngược lại với thực tế thì ta dùng thực tế để bác bỏ. - Dùng phép suy luận Từ thực tế, ta có thể thêm suy luận để cái sai ấy bộc lộ rõ hơn. b. Bác bỏ luận cứ Là vạch ra tính chất sai lầm, giả tạo trong lý lẽ và dẫn chứng được sử dụng. c. Bác bỏ lập luận Là vạch ra sự mâu thuẫn, không nhất quán, phi lôgíc trong lập luận của đối phương. * Lưu ý Mục đích của bác bỏ là bảo vệ chân lí, xác nhận sự thật. Nếu xa rời mục đích chân lí thì sự bác bỏ trở thành nguỵ biện, vô bổ và có hại. Bài viết có bố cục như sau Đoạn 1 Xác định luận điểm cần bác bỏ. Đoạn 2 Phân tích để thấy rõ thực chất của luận điểm. Đoạn 3 Dùng luận cứ để bác bỏ luận điểm. Ví dụ a. Nhất Chi Mai Nhất Linh phê bình Vũ Trọng Phụng, năm 1937. Đọc xong một đoạn văn, tôi thấy trong lòng phẫn uất, khó chịu, tức tối. Không phải phẫn uất, khó chịu cái vết thương xã hội tả trong câu văn, mà chính là vì cảm thấy tư tưởng hắc ám, căm hờn nhỏ nhen ẩn trong đó. ... Đọc văn Vũ Trọng Phụng, thực không bao giờ tôi thấy một tia hy vọng, một tư tưởng bi quan. Đọc xong ta tưởng nhân gian là một nơi địa ngục và xung quanh mình toàn là những kẻ giết người, làm đĩ, ăn tục, nói càn, một thế giới khốn nạn vô cùng. Phải chăng đó là tấm gương phản chiếu tính tình, lí tưởng của nhà văn, một nhà văn nhìn thế giới qua cặp mắt kính đen và một cội nguồn văn cũng đen nữa. b. Vũ Trọng Phụng đã phản bác lại cùng năm đó, 1937. Khi dùng một từ bẩn thỉu tôi chẳng thấy khoái trá như khi các ông tìm được một kiểu áo phụ nữ mới mẻ, những lúc ấy, tôi chỉ thương hại cái nhân loại ô uế bẩn thỉu, nó bắt tôi phải viết như thế, và nó bắt các ông phải chạy xa sự thực bằng những danh từ điêu trá của văn chương. Các ông quen nhìn một cô gái nhảy là một phụ nữ tân thời, vui vẻ trẻ trung, hi sinh cho ái tình hoặc cách mạng lại gia đình. Riêng tôi, tôi chỉ thấy đó là một người đàn bà vô học, chẳng có thị vị, lại hư hỏng, lại bất hiếu bất mục nữa, lại có nhiều vi trùng trong người nữa. Tôi không biết gọi gái đĩ là nàng - chữ ấy nó thi vị lắm - hoặc tô điểm cho gái đĩ ấy những cái thi vị mà gái đĩ ấy không có, đến nỗi đọc xong truyện người ta chỉ thấy một gái đĩ làm gương cho thế gian noi theo! ... Đó, thưa các ông, cái chỗ bất đồng ý kiến giữa chúng ta!... Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời... Hắc ám, có! Vì tôi vốn là người bị quan, căm hờn cũng có, vì tôi cho rằng cái xã hội nước nhà mà lại không đáng căm hờn, mà lại cứ "vui trẻ trung", trưởng giả, ăn mặc tân thời, khiêu vũ các ông chủ trương thì một là không muốn cải cách gì xã hội, hai là ích kỉ một cách đáng sỉ nhục. Còn bảo nhỏ nhen thì thì thế nào? Tả thực cái xã hội khốn nạn, công kích cái xa hoa dâm đãng của bọn người có nhiều tiền, kêu ca những sự thống khổ của nhân dân nghèo bị bóc lột, bị áp chế, bị cưỡng bức, muốn cho xã hội công bình hơn nữa, đừng có chuyện ô uế, dâm đãng, mà bảo là nhỏ nhen, thì há dễ Zôla Dôla, Hugo Huygô, Mabraux Mabrô, Dostoievski Đôtstôiepski, Maxime Gorki Maxim Gorki lại không cũng là nhỏ nhen? Nếu các ông không muốn sờ lên gáy thì thôi, bao nhiêu chuyện thanh cao, tao nhã, cao thượng của loài người xin các ông cố mà hương hoa khấn khứa. Tôi xin để cái phần ấy cho các ông. Riêng tôi, xã hội này, tôi chỉ thấy khốn nạn, quan tham lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, một tụi văn sĩ đầu cơ xảo quyệt, mà cái xa hoa chơi bời của bọn giàu thì thật là những câu chửi rủa vào cái xã hội dân quê, thợ thuyền bị lầm than, bị bóc lột. Lạc quan được cho đời là vui, là không cần cải cách, cho cái xã hội này là hay ho tốt đẹp, rồi ngồi mà đánh phấn bôi môi hình quả tim để đi đua ngựa, chợ phiên, khiêu vũ, theo ý tôi, thế là giả dối, là tự lừa mình và di hoạ cho đời, nếu không là vô liêm sỉ một cách thành thực. C. Vận dụng kết hợp các thao tác lập luận 1. Vì sao phải sử dụng kết hợp các thao tác lập luận? Viết văn nghị luận là thể hiện sự hiểu biết, nhận thức, khám phá của mình về đối tượng nghị luận nhằm nâng cao trình độ, năng lực, giúp người khác cùng hiểu và tin vào vấn đề. Đồng thời người viết cũng thể hiện chính kiến, thái độ, sự đánh giá vấn đề, không ngừng đưa ra những điều chỉnh tích cực nhằm nâng cao sự tiến bộ trong lĩnh vực văn minh tinh thần của văn học. Do đó phải sử dụng kết hợp các thao tác lập luận. - hiểu biết, nhận thức -> giải thích - khám phá -> phân tích - đánh giá -> bình luận. ... 2. Tìm hiểu việc sử dụng kết hợp các thao tác lập luận trong bài văn sau HOÀNG HẠC LÂU Lầu Hoàng Hạc Thôi Hiệu Thôi Hiệu 704 - 754 là một trong những nhà thơ xuất sắc thời Đường. Hoàng Hạc lâu là bài thơ nổi tiếng được truyền tụng xưa nay. Thắng cảnh lầu Hoàng Hạc ở huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc gắn với truyền thuyết người tiên là Tử An rồi Phí Văn Vi cưỡi chim hạc vàng đến nơi này. Tương truyền khi xưa Lí Bạch có đi qua Hoàng Hạc lâu, thấy phong cảnh hữu tình, muốn phóng bút một vài câu thơ ca ngợi nhưng chợt thấy bài Hoàng Hạc lâu khắc trên vách bèn ngửa mặt than rằng Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu . Dịch Trước mắt thấy cảnh không tả được Vì Thôi Hiệu đã đề thơ trên đầu. Lầu Hoàng Hạc toạ lạc ở địa điểm cao nên có thể nhìn bốn phương trời mênh mang và phía dưới là dòng sông Dương Tử chảy về đông. Đứng trên lầu cao, cảm giác con người quá bé nhỏ trước vũ trụ, trước không gian vĩnh hằng và thời gian chảy trôi vĩnh viễn. Do đó, bốn câu đầu gợi tả quang cảnh chung nhưng cũng là suy niệm về phận người trước cái vô thủy vô chung Hạc vàng ai cưỡi đi đâu, Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ. Hạc vàng đi mất từ xưa, Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay. Nhắc đến tích xưa là chiêm nghiệm cái còn và cái đã mất. Người tiên đã cưỡi chim thiêng mang cái đẹp đi rồi, bây giờ lầu Hoàng Hạc chỉ còn dấu tích của kỉ niệm, đứng trơ trọi như cái xác không hồn. Nhìn lên bầu trời quang đãng chỉ thấy vầng mây trắng trôi lơ lửng ngàn năm Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay. Cảnh trong trẻo mênh mông mà cô quạnh đã diễn tả cái trống vắng chơi vơi trong tâm hồn lữ khách. Bốn câu thơ nhưng có ba từ hoàng hạc, đây là điểm kiêng kị trong thơ Đường nhưng phép điệp hình ảnh chim hạc bay đi chỉ còn lại khoảng trời trống vắng đã diễn tả niềm luyến tiếc không nguôi cái đẹp đã mất. Tâm trạng hụt hẫng, nuối tiếc như gởi vào bầu trời xanh mênh mông. Đoạn thơ còn suy niệm về lẽ mất còn và cái hữu hạn, bé nhỏ của đời người trước sự trôi chảy của thời gian và không gian trời rộng sông dài. Hạc vàng tượng trưng cho ẩn sĩ, cái đẹp cao khiết và bất tử. Mây trắng biểu tượng cho trinh bạch, yên tĩnh nhưng vô hồn như lầu không. Hạc đi, mây ở lại, gợi đến tình cảnh biệt li. Hạc vàng đi về đâu không biết như cuộc đời con người thật quý giá nhưng cuối cùng sẽ đi về đâu sau trăm năm chìm nổi nên hình ảnh mây trắng phiêu bồng lãng du gợi cảm giác phù sinh của kiếp người. Thơ luật Đường thất ngôn, đề ra nguyên tắc niêm luật rất chặt chẽ. Tuy vậy bốn câu thơ đầu đã phá luật bằng trắc hoàng hạc khứ / hoàng hạc lâu để đảm bảo tiểu đối về cái động chim hạc bay với cái tĩnh lầu Hoàng Hạc, từ đó nổi rõ ý tưởng giữa cái hư vô và cái hiện hữu. Bất phục phản đối không chỉnh với không du du nhưng thể hiện được cảm xúc tự nhiên dạt dào. Từ cảnh hiện hữu gợi cái vô thường, nhà thơ đưa người đọc về không gian sống tươi tắn, tràn đầy ánh sáng của cảnh bên lầu Hoàng Hạc Hán Dương sông tạnh cây bày, Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non. Hình ảnh hàng cây soi bóng sáng rõ mồn một lịch lịch trên dòng sông xanh phẳng lặng như gương và cỏ thơm đôi bờ xanh mơn mởn gợi vẻ đẹp diễm lệ mà im ắng như bức tranh tĩnh vật. Cảnh trống vắng như lầu không, như bầu trời cao. Nhìn chung, khung cảnh đẹp như bức tranh thủy mạc tươi thắm những sắc màu cánh hạc vàng, trời trong mây trắng, sông xanh, cỏ mướt. Đứng trong cảnh đẹp thanh khiết, con người như cũng được thanh lọc tâm hồn. Từ thê thê có nghĩa là xanh tươi mơn mởn nhưng cũng có nghĩa là lạnh buốt buồn bã, tùy theo cách phát âm. Do đó, phong cảnh có nắng ấm, cỏ thơm nhưng buồn vắng lạnh lẽo nên gợi biết bao nỗi niềm cho viễn khách thi nhân. Chiều xuống, cảnh hoàng hôn tĩnh lặng càng thêm buồn vời vợi. Khi ánh nắng yếu dần, cái tươi thắm của bức tranh xuân đã nhường chỗ cho khói sương mờ bao phủ dòng sông, ngày đã hết nên tâm trạng muốn quay về ngôi nhà yêu dấu và làm dâng lên nỗi buồn thương nhớ quê hương Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Quê hương ở đâu sau ánh chiều tà? Quê hương là ngôi làng dấu yêu hay là chốn trở về sau cuộc đời trăm năm chìm nổi đã được suy niệm từ câu thơ đầu? Hết một cuộc đời con người rồi sẽ đi về đâu? Trở về cát bụi hay cõi hư vô? Câu thơ gợi nỗi buồn bâng khuâng, man mác. Bảy câu thơ dọn đường cho chữ sầu buông xuống. Sầu vì hoài cổ, thương kim? hay nhớ quê hương? Bài thơ đẹp về cảnh lẫn tình ý sâu xa nên Nghiêm Vũ đời Nam Tống đã nói rằng “Đường nhân thất ngôn luật thi, đương dĩ Thôi Hiệu Hoàng Hạc Lâu đệ nhất” Thơ niêm luật đời Đường bảy chữ, phải xếp bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu vào hạng nhất. VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN I. Đoạn văn nghị luận là gì? Vai trò của đoạn trong bài văn nghị luận. II. Nội dung và hình thức III. Kết cấu IV. Cách trình bày 1. Diễn dịch 2. Quy nạp 3. Tổng - phân - hợp 4. Vấn đáp 5. Nêu phản đề 6. So sánh 7. Phân tích nhân - quả
Lượt xem 794 FINDING IDEAS FOR LITERARY DISCOURSE NGUYỄN BÍCH TRÂMTrường Cao đẳng Sư phạm Sóc Trăng TÓM TẮT Nghị luận văn học là một kiểu văn bản trọng tâm trong chương trình Ngữ văn các cấp. Để có một văn bản nghị luận hay, việc tìm kiếm ý tưởng là điều rất cần thiết. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều học sinh, sinh viên gặp khó khăn trong việc tìm kiếm các ý tưởng cho bài nghị luận văn học. Bài viết là một đóng góp của người viết nhằm hỗ trợ người học khắc phục khó khăn trong việc tìm ý tưởng cho kiểu văn bản này. Từ khóa Tạo lập văn bản, nghị luận văn học, ý tưởng. ABSTRACT Literary discourse is very important in school’s literacy program at all levels. In order to have a good text, finding the right ideas is essential. However, in reality, many students find it difficult to find ideas for writing literary discourse. This article makes a contribution to support students to overcome difficulties in finding ideas for the literary discourse text. Keywords Writing, literary discourse, ideas. xx x 1. Mở đầu Tạo lập văn bản là một kỹ năng quan trọng mà người học cần rèn luyện ngay từ trên ghế nhà trường bởi sự cần thiết của nó đối với thực tiễn cuộc sống của mỗi người. Chính vì vậy, tạo lập văn bản được xem là một trong những nội dung trọng tâm trong chương trình Ngữ văn các cấp. Các kiểu văn bản thuộc nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau như văn miêu tả, thuyết minh, tự sự, nghị luận, thư, đơn từ, hợp đồng… đã góp phần giúp người học hình thành kỹ năng tạo lập các văn bản thông dụng, cần thiết trong đời sống. Trong số những kiểu văn bản được giảng dạy trong nhà trường, nghị luận văn học là một trong những nội dung trọng tâm của tạo lập văn bản mà người học cần rèn luyện. Đây là một kiểu bài gắn liền với học sinh HS ở phổ thông qua các cấp học và tiếp tục là “bạn đồng hành” với nhiều sinh viên SV trong chương trình đào tạo của các ngành có liên quan đến Văn học. Tuy nhiên, hiện nay, rất nhiều người học không biết cách viết một bài nghị luận văn học. Một trong những biểu hiện của hạn chế đó chính là sự nghèo nàn về ý tưởng trong các bài viết. Trước thực tế đó, chúng tôi đã đi sâu tìm hiểu những khó khăn của người học trong việc tìm kiếm ý tưởng cho bài nghị luận văn học, qua đó đề xuất một số giải pháp hướng dẫn người học tìm ý tưởng để tạo lập kiểu văn bản nghị luận văn học đạt hiệu quả hơn. 2. Nội dung Một số vấn đề về tạo lập văn bản nghị luận văn học Tạo lập văn bản có vai trò vô cùng quan trọng đối với môn Ngữ văn trong nhà trường. Mục tiêu dạy tạo lập văn bản là phát triển năng lực cho người học năng lực lập luận, tư duy phân tích, tổng hợp, so sánh, phê phán, đánh giá, chứng minh, phản hồi, sáng tạo, phát triển kỹ năng giao tiếp, tạo lập văn bản theo đặc trưng từng kiểu văn bản, phát triển năng lực quan sát, tưởng tượng… Tiến trình tạo lập văn bản gồm bốn bước cơ bản nảy sinh ý tưởng; phát triển và hệ thống các ý tưởng; diễn đạt các ý thành đoạn văn, bài văn; chỉnh sửa, biên tập. “Điều cần lưu ý là các hoạt động trong giai đoạn này không hoàn toàn được thực hiện theo trình tự thời gian mà là sự đan xen của các hoạt động viết, xem lại, chỉnh sửa, viết… Nói cách khác là trong quá trình tạo lập văn bản, người viết thường xuyên trở đi trở lại các giai đoạn để xem lại, chỉnh sửa, kiểm soát các hoạt động viết” [1, tr. 118]. Nghị luận văn học là một kiểu văn bản trọng tâm trong nhà trường, thể hiện cả hai hoạt động chủ yếu của môn Ngữ văn là đọc hiểu văn bản và tạo lập văn bản. Vì vậy, việc dạy học kiểu bài này gắn liền với nhiệm vụ rèn luyện nhiều năng lực cho người học mà môn Ngữ văn phụ trách, trong đó có năng lực ngôn ngữ và năng lực thẩm mỹ. Bên cạnh đó, việc tạo lập tốt một văn bản nghị luận văn học còn thể hiện được khả năng tư duy của người viết, trong đó nổi bật là khả năng lập luận, thuyết phục người đọc bằng hệ thống các lý lẽ phong phú, dẫn chứng, minh họa xác đáng, liên tưởng sáng tạo, độc đáo. Để đạt được mục tiêu có được một bài nghị luận văn học hay, một bài viết cần đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau Thứ nhất, đảm bảo những yêu cầu về bố cục của văn bản nghị luận. Bố cục một văn bản nghị luận trong nhà trường gồm ba phần chính, trong đó mở bài phải giới thiệu được vấn đề cần nghị luận, thân bài là phần trọng tâm gồm hệ thống các luận điểm, luận cứ để làm rõ vấn đề đặt ra ở mở bài, kết luận hệ thống lại vấn đề đã bàn bạc và liên hệ, gợi mở thêm. Thứ hai, bài viết đảm bảo “trả lời” được những vấn đề được đặt ra ở đề bài, thể hiện hiểu biết phong phú và sâu sắc của người viết về vấn đề đang bàn bạc và những vấn đề có liên quan về văn bản, về nhân vật, nội dung, nghệ thuật của tác phẩm, mảng sáng tác, giai đoạn, trào lưu văn học…. Thứ ba, liên quan mật thiết với yêu cầu về bố cục và nội dung văn bản, một bài viết tốt cần phải có sự hợp lý trong sắp xếp các luận điểm, sử dụng các luận cứ trong quá trình lập luận. Thứ tư, đảm bảo yêu cầu về diễn đạt, tức là sử dụng câu, từ phù hợp để thể hiện những ý tưởng muốn triển khai. Nghị luận văn học là kiểu văn bản có đối tượng nghiên cứu, khai thác là tác phẩm văn chương và hoạt động sáng tạo, tiếp nhận văn chương. Do đó, khi tạo lập kiểu văn bản này, ngoài những yêu cầu trên, người viết phải thể hiện được những cảm thụ sâu sắc của mình về tác phẩm, tác giả đang được đề cập. Đây là một yêu cầu quan trọng, góp phần tạo nên sự sâu sắc của bài viết. Kỹ năng viết văn nghị luận văn học của học sinh, sinh viên hiện nay Gắn liền với những yêu cầu đối với một bài văn nghị luận văn học chính là những yêu cầu đối với người viết về kỹ năng tạo lập kiểu văn bản này. Theo đó, để làm tốt một bài nghị luận văn học, trước hết, người học cần phải rèn luyện những kỹ năng chung về tạo lập văn bản nghị luận tìm hiểu đề, xác lập yêu cầu bài văn; xác định luận điểm, luận cứ, dẫn chứng, lập luận; kỹ năng viết, lập luận, diễn đạt; kỹ năng đánh giá, chỉnh sửa văn bản. Bên cạnh đó, như đã nói, để làm tốt kiểu bài văn nghị luận liên quan đến tác phẩm văn chương và hoạt động sáng tạo, tiếp nhận văn chương, người viết cần có được năng lực phân tích, cảm thụ tác phẩm và hiểu biết phong phú về văn chương để có thể đưa ra những nhận định, đánh giá xác đáng và thuyết phục, để bài viết có được chiều sâu cần thiết. Những yêu cầu này tùy theo từng đối tượng người học mà có những mức độ khác nhau, tuy nhiên, sự hoàn thiện về những kỹ năng này để có một bài viết tốt nhất là đích đến cuối cùng mà người học phải hướng tới. Trong những yêu cầu trên, một vấn đề rất quan trọng chính là kỹ năng xác lập các ý tưởng cho bài viết liên quan đến bước 1, 2 của tiến trình tạo lập văn bản. Đây là một kỹ năng quan trọng để có được một bài nghị luận văn học sâu sắc, thuyết phục. Tuy nhiên, đây lại chính là khiếm khuyết đang tồn tại ở đa số người học hiện nay khi thực hành tạo lập kiểu văn bản này. Như đã nói, tuy vai trò của tạo lập văn bản đã được nhấn mạnh và người học đã được rèn luyện kỹ năng này xuyên suốt các cấp học, song có một thực tế là hiện nay rất ít thấy những bài văn nghị luận của HS trọn vẹn về nội dung và hình thức như những yêu cầu đã đặt ra. Đa số người học không thể trình bày được một văn bản có bố cục hợp lý, sáng rõ. Bài viết cũng thường mắc nhiều lỗi về diễn đạt, lập luận thiếu logic. Đặc biệt, vấn đề rất quan trọng mà chúng tôi muốn nhấn mạnh trong bài viết này chính là sự hạn chế về ý tưởng của người học. Chúng ta đã biết, một bài viết phong phú, sâu sắc về ý tưởng, chặt chẽ về lập luận, diễn đạt mạch lạc, súc tích… mới là một bài viết tốt. Hệ thống các ý tưởng được sắp xếp và trình bày hợp lý chính là nòng cốt để tạo ra một bài nghị luận hay. Tuy nhiên, phần lớn HS lại thường không biết cách tìm, chọn lọc, sắp xếp các ý tưởng. Đối với nghị luận văn học, họ càng gặp nhiều khó khăn khi huy động vốn kiến thức về tác giả, tác phẩm, những nhận định, đánh giá… liên quan đến đề bài để tạo thành một hệ thống các ý tưởng cho bài viết. Trong quá trình giảng dạy các học phần liên quan đến tạo lập văn bản cho SV của trường Cao đẳng Sư phạm Sóc Trăng, chúng tôi đã tiến hành khảo sát ý kiến của người học về kiểu bài nghị luận văn học. Theo đó, khi được hỏi về những khó khăn khi viết một văn bản nghị luận văn học, đa số người học đều cho rằng họ “không thể hình dung được những ý tưởng cần có khi viết bài, không biết bắt đầu viết từ đâu”, “không biết cách xác định và trình bày luận điểm, luận cứ”, “thiếu thông tin, không đào sâu được vấn đề”, “chưa xác định được yêu cầu đề bài và phạm vi cần khảo sát”, “chưa liên hệ được những kiến thức từ thực tiễn vào trong bài viết”, “lập luận không chặt chẽ, diễn đạt chưa tốt”… Trong những phản hồi của người học, chúng tôi nhận thấy khó khăn mà họ gặp phải chủ yếu ở vấn đề xác định, hệ thống hóa và trình bày các ý tưởng cho bài văn. Thực tế các bài viết của các em cũng thể hiện điều này. Với đề bài “Giá trị nhân đạo trong tác phẩm Cô bé bán diêm của nhà văn Anđéc-xen”, trên 50% SV tham gia viết bài đều triển khai văn bản không đúng các ý trọng tâm cần có. Với đề bài này, các ý chính có thể triển khai để làm rõ bao gồm biểu hiện của giá trị nhân đạo trong tác phẩm; những đánh giá về giá trị nhân đạo của tác phẩm; bên cạnh đó còn có các ý khác giới thiệu về tác giả, tóm tắt nội dung tác phẩm… Tuy nhiên, đa số người viết chỉ tập trung vào cốt truyện, kể lại những chi tiết liên quan đến cuộc đời, số phận bất hạnh của cô bé bán diêm. Các bài viết không khái quát được các ý tưởng về “biểu hiện của giá trị nhân đạo” lấy từ tình tiết tác phẩm, thiếu những nhận định đánh giá, liên hệ mở rộng… Những hạn chế trong triển khai ý tưởng bài văn nghị luận văn học của HS, SV hiện nay đã dẫn đến tình trạng xuất hiện những văn bản “cực ngắn”, “diễn xuôi” tác phẩm, nội dung đề bài; nghĩ gì viết đó, không chủ đích giải quyết vấn đề đề bài đặt ra… Tình trạng này dẫn đến chất lượng bài viết của người học thường không cao, đồng thời dẫn đến những tiêu cực như lấy ý tưởng có sẵn của người khác hoặc lệ thuộc vào những văn bản mẫu. Đề xuất cách thức tìm ý tưởng để tạo lập văn bản nghị luận văn học Ý tưởng để tạo lập một văn bản nghị luận văn học rất phong phú và có thể tìm thấy từ nhiều kênh thông tin. Đó có thể là những kiến thức về tác giả, tác phẩm người học có được qua các giờ học, những thông tin về tác giả, tác phẩm được đọc thêm từ sách, báo, những nhận định, đánh giá của các nhà phê bình về tác giả, tác phẩm, vốn hiểu biết thực tế, trải nghiệm, những phát hiện riêng khi đọc tác phẩm, những xúc cảm của người viết về các chi tiết, nhân vật trong tác phẩm… Điều quan trọng là người học biết cách tìm và sắp xếp các ý tưởng hợp lý, đáp ứng được yêu cầu của đề bài. Dưới đây, chúng tôi sẽ khái quát lại một số cách thức người học có thể áp dụng để giúp việc tìm kiếm hệ thống các ý tưởng cho bài văn nghị luận văn học dễ dàng hơn. Tìm ý tưởng trong quá trình đọc hiểu văn bản Để tạo lập một văn bản nghị luận văn học, yêu cầu bắt buộc là người viết phải có hiểu biết về vấn đề được đặt ra trong đề bài. Đó chính là những kiến thức về tác phẩm, về trào lưu, giai đoạn văn học mà tác phẩm đó là một thành tố. Thực tế cho thấy, những HS “không biết viết gì” trong bài văn của mình là do thiếu mảng kiến thức quan trọng này. Để có kiến thức về tác phẩm, người học cần đầu tư nghiêm túc cho việc tìm hiểu văn bản. Vì vậy, một trong những yêu cầu quan trọng hiện nay chính là trang bị cho người học phương pháp đọc hiểu văn bản, để họ có thể tự chiếm lĩnh văn bản. Đây là một kỹ năng quan trọng đối với đa số người học. Những giờ học về tác phẩm trên lớp sẽ đóng vai trò quan trọng trong nhiệm vụ trang bị cho người học kỹ năng này. Giáo viên GV có thể vận dụng nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học khác nhau để hỗ trợ người học chiếm lĩnh tác phẩm. Ở bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu hai kỹ thuật dạy học có thể được sử dụng trong giờ đọc hiểu văn bản cũng như hiệu quả của chúng trong việc giúp người học hiểu hơn về tác phẩm, từ đó có thêm những ý tưởng cho các bài viết nghị luận văn học. * Kỹ thuật DR-TA DR-TA Direct Reading – Thinking Activity [2] là kỹ thuật “đọc có hướng dẫn – hoạt động tư duy”, một kỹ thuật hướng dẫn người học nêu câu hỏi về văn bản, dự đoán nội dung văn bản, sau đó đọc để xác nhận hoặc bác bỏ những dự đoán của mình, qua đó điều chỉnh cách hiểu về văn bản. Kỹ thuật này được thực hiện trong từng đoạn văn bản để người học có điều kiện lần lượt thảo luận, trao đổi và điều chỉnh cách hiểu về văn bản. Các câu hỏi của giáo viên GV là các câu hỏi gợi mở và nảy sinh trên cơ sở những câu trả lời của người học. Tiến trình tương tác giữa GV và người học theo kỹ thuật DR-TA được thực hiện như sau – Bước 1 GV xác định văn bản và lựa chọn những điểm sẽ cho HS tạm dừng lại trong quá trình đọc để đặt câu hỏi và dự đoán. – Bước 2 – D = Direct Hướng dẫn GV yêu cầu người học đọc qua tựa đề, tên các chương, hình vẽ… và đặt các câu hỏi gợi mở hướng dẫn người học dự đoán về nội dung văn bản. Ví dụ “Với tựa đề như vậy, bạn cho rằng văn bản sẽ viết về cái gì?”… Bước này giúp kích thích tư duy của người học. – Bước 3 – R = Reading Đọc người học đọc đoạn đã chọn. GV gợi nhắc người học bằng những câu hỏi về những thông tin trong đoạn đã đọc và yêu cầu người học xem lại những dự đoán bản thân đã nêu trước đó và điều chỉnh lại cách hiểu về nội dung. – Bước 4 – T = Thinking suy nghĩ Khi đọc xong mỗi đoạn, GV sử dụng các câu hỏi gợi nhắc người học suy nghĩ lại về những dự đoán trước đó của mình, điều chỉnh hoặc bổ sung, làm rõ những dự đoán đó bằng các chi tiết trong văn bản. Ví dụ Hệ thống câu hỏi được xây dựng theo kỹ thuật DR-TA ĐI BỘ NGAO DU Trích Ê-min hay Về giáo dục – Ru-xô Ngữ văn 8 Hoạt động Câu hỏi gợi ý D Direct – Hướng dẫn Các câu hỏi được đặt ra trước khi người học đọc văn bản. 1. Theo bạn, với nhan đề “Đi bộ ngao du”, văn bản sẽ đề cập đến nội dung gì? 2. Bạn biết gì về tác giả Ru-xô? Điều đó giúp gì cho bạn khi tìm hiểu văn bản này? R Reading – Đọc Các câu hỏi được đặt ra khi HS đọc lần lượt từng đoạn văn bản 1. Hãy đọc đoạn 1. Ở đoạn này, tác giả đã trình bày vấn đề gì liên quan đến “đi bộ ngao du”? Những lý lẽ, dẫn chứng nào đã được trình bày? 2. Ở đoạn 2, tác giả tiếp tục trình bày vấn đề gì về “đi bộ ngao du”? Những điều tác giả trình bày có hợp lý không? 3. Tác giả mở đầu đoạn 3 bằng nhận định “Biết bao hứng thú khác nhau ta tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy…”. Vậy trong đoạn 3 tác giả sẽ trình bày nội dung gì về đi bộ ngao du? 4. Hãy sắp xếp các luận điểm của văn bản này vào một sơ đồ để thấy được cách lập luận của tác giả. T Thinking – Suy nghĩ Các câu hỏi được đặt ra khi người học đã đọc xong toàn văn bản. 1. Bạn tâm đắc điều gì về văn bản “Đi bộ ngao du”? 2. Nếu bạn là tác giả Ru-xô, bạn sẽ trình bày những vấn đề gì về chủ đề “đi bộ ngao du”? 3. Bạn hiểu thêm gì về tác giả Ru-xô sau khi đọc văn bản này? 4. Theo bạn, ý nghĩa của văn bản này là gì? * Kỹ thuật QAR QAR Q Question, A Answer, R Relationship [2], là kỹ thuật giúp người học hiểu mối quan hệ giữa câu hỏi, thông tin trong văn bản và kiến thức nền kiến thức sẵn có của người học, giúp họ phát triển mức độ phức tạp của câu hỏi và câu trả lời, qua đó hiểu sâu sắc, toàn diện hơn về văn bản. Câu hỏi đọc văn bản gồm bốn mức độ – Mức độ 1 – “Ở đây” Câu hỏi yêu cầu tìm thông tin có sẵn trong văn bản. Các câu hỏi ở mức độ này thường là “Ai là…?”, “Điều đó xảy ra khi nào, ở đâu?”, “Đó là cái gì?”… – Mức độ 2 – “Suy nghĩ và tìm kiếm” Câu hỏi yêu cầu HS phải suy nghĩ và tìm kiếm thông tin trong văn bản. Các câu hỏi ở mức độ này thường là “Hãy giải thích…”, “Hãy sosánh…”, “Điều đó có ý nghĩa gì?”, “Hãy tóm tắt…” – Mức độ 3 – “Tác giả và tôi” Câu hỏi yêu cầu HS phải có khả năng suy luận, dựa vào kiến thức nền đồng thời tìm minh chứng cho câu trả lời. Các câu hỏi ở mức độ này thường là “Dựa vào đâu mà bạn có kết luận đó?”, “Ý nghĩa của chi tiết/ hình ảnh/ sự kiện… là gì?” – Mức độ 4 – “Dựa vào chính tôi” câu hỏi ở mức độ này yêu cầu người học phải dựa vào năng lực suy luận của họ. Các câu hỏi ở mức độ này thường là “Bạn có suy nghĩ gì về…”, “Bạn đã từng biết/trải qua…?”, “Điều đó là như thế nào?” Mức độ 1, 2 là những câu hỏi sử dụng thông tin có sẵn trong văn bản, mức độ 3, 4 là những câu hỏi sử dụng kiến thức nền của người học để trả lời. Các mức độ câu hỏi này tạo thành một hệ thống chặt chẽ, phù hợp với quá trình tiếp nhận văn bản, thể hiện mối quan hệ giữa văn bản và thực tiễn. Các câu hỏi được thực hiện trước, trong và sau khi đọc văn bản, qua đó vừa kích hoạt kiến thức nền, trợ giúp người học đọc văn bản vừa giúp họ suy ngẫm về những gì mình đã đọc được từ văn bản, liên hệ với bản thân và thế giới xung quanh. Khi khảo sát một văn bản có sự kết hợp các câu hỏi ở cả bốn mức độ trên, người học có điều kiện để khai thác và hiểu về văn bản một cách rõ ràng, sâu sắc. Ví dụ Hệ thống câu hỏi được xây dựng theo kỹ thuật QAR BẾN QUÊ – Nguyễn Minh Châu Ngữ văn 9 Mức độ Câu hỏi gợi ý 1 1. Tìm những chi tiết trong tác phẩm nói lên hoàn cảnh của nhân vật Nhĩ. 2. Khi nằm trên giường bệnh, Nhĩ có những suy nghĩ gì? 2 1. Nguyễn Minh Châu đã xây dựng tình huống truyện như thế nào? Ý nghĩa của tình huống truyện đó. 2. Chi tiết nào trong tác phẩm mang lại cho bạn nhiều suy nghĩ nhất? Hãy nói về chi tiết đó. 3 Bạn suy nghĩ gì về ý nghĩa câu nói của nhân vật Nhĩ “Con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo, chùng chình” ? 4 1. Bạn có biết những ai gặp hoàn cảnh tương tự nhân vật Nhĩ không? 2. Nếu bạn ở trong hoàn cảnh của nhân vật Nhĩ, bạn mong muốn điều gì? Với các phương pháp, kỹ thuật dạy học được vận dụng hợp lý vào trong các giờ đọc hiểu văn bản mà điển hình là hai kỹ thuật trên, GV có thể giúp người học tăng cường hứng thú học tập, hiểu rõ hơn về tác phẩm, qua đó dễ dàng huy động ý tưởng cho bài viết khi tạo lập văn bản nghị luận văn học về tác phẩm. Tìm ý tưởng trong mối quan hệ giữa văn bản đang khảo sát và các tác phẩm khác Các tác phẩm văn học đều có mối quan hệ với nhau, xét ở một khía cạnh nhất định. Các tác phẩm đó có thể cùng thuộc một giai đoạn, trào lưu, đề tài, do một tác giả viết ra… hoặc tuy khác nhau về tác giả, giai đoạn, trào lưu nhưng lại có một khía cạnh nào đó tương đồng hoặc tương phản về nội dung, tư tưởng, nghệ thuật… Điều đó có nghĩa là luôn có một tiêu chí nào đó để chúng ta có thể so sánh các tác phẩm với nhau. Khi viết một bài nghị luận văn học, việc liên hệ, so sánh, đối chiếu tác phẩm văn học đang khảo sát với các tác phẩm khác sẽ giúp bài viết có được nhiều ý tưởng phong phú, việc khai thác vấn đề đặt ra trong đề bài sâu sắc hơn, thể hiện hiểu biết sâu rộng và khả năng lập luận của người viết. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là đa số người học không quan tâm đến việc liên hệ với các tác phẩm khác để tìm kiếm ý tưởng cho bài viết. Để khai thác tốt kênh thông tin này, trong quá trình hướng dẫn người học tìm ý tưởng cho bài văn nghị luận văn học, hoặc ngay chính trong quá trình tìm hiểu văn bản, GV có thể sử dụng hệ thống các câu hỏi gợi ý để định hướng cho người học cách liên hệ, khai thác mối quan hệ giữa các tác phẩm để bổ sung nguồn ý tưởng cho bài viết. Dưới đây là một số ví dụ cho việc sử dụng hệ thống câu hỏi liên hệ để tìm ý tưởng cho bài viết từ mối liên hệ giữa các văn bản Ví dụ 1 SÓNG – Xuân Quỳnh Ngữ văn 12 Vấn đề Câu hỏi gợi ý Đề tài tình yêu – Từ bài thơ Sóng, hãy tìm thêm những tác phẩm khác viết về đề tài tình yêu mà bạn đã được đọc. – Ngoài bài thơ Sóng, Xuân Quỳnh còn có những bài thơ nào về đề tài tình yêu không?… Chủ đề tác phẩm Viết về tình yêu của người phụ nữ, các tác phẩm khác thể hiện nội dung này như thế nào?… Nội dung “Những cung bậc phức tạp trong tình yêu của người phụ nữ” Trong bài thơ Thuyền và biển, Xuân Quỳnh đã có những lý giải về sự phức tạp trong tình yêu của người phụ nữ. Câu thơ nào thể hiện điều đó? Nội dung “Khát vọng tình yêu của người phụ nữ” Tự hát là một bài thơ thể hiện rất rõ nỗi lòng người phụ nữ đang yêu. Khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng đã được Xuân Quỳnh thể hiện như thế nào trong bài thơ Tự hát? Ví dụ 2 ĐỀ TÀI NGƯỜI NÔNG DÂN Nội dung Câu hỏi gợi ý Tác phẩm Văn học Việt Nam/ Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có những tác phẩm nào viết về đề tài người nông dân?…. Tác giả và quan điểm sáng tác 1. Những nhà văn nào có nhiều sáng tác về người nông dân Việt Nam? 2. Thái độ của các nhà văn đối với người nông dân có gì đặc biệt?…. So sánh các tác phẩm có đề tài người nông dân 1. Viết về đề tài người nông dân, nội dung và cách viết của các tác giả có gì giống/khác nhau? 2. Cách khắc họa tính cách, tâm lý nhân vật trong các tác phẩm có gì khác nhau?…. Tìm ý tưởng cho văn bản từ thực tiễn Văn chương luôn bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, phản ánh lại hiện thực khách quan bằng ngòi bút sáng tạo và cảm quan của từng tác giả. Thực tiễn chính là nguồn tư liệu phong phú và quan trọng cho sáng tác. Chính vì vậy, khi tìm hiểu, bình giá một tác phẩm văn học, người đọc cần phải chú ý khai thác thực tiễn cuộc sống có liên quan đến những điều được phản ánh trong tác phẩm để có được những hiểu biết sâu sắc hơn về tác phẩm đó, về mối quan hệ của nó đối với cuộc sống. Để tạo lập một văn bản nghị luận văn học hay, người viết cũng không thể bỏ qua nguồn tư liệu quan trọng này, góp phần làm cho hệ thống ý tưởng trong bài viết thêm phong phú, sâu rộng, qua đó lý giải, đánh giá sâu sắc và thuyết phục hơn về những vấn đề được đặt ra. Ý tưởng cho bài nghị luận văn học từ thực tiễn đời sống có thể bao gồm những những mẩu chuyện, nhân vật, sự kiện, hiện tượng xảy ra trong cuộc sống liên quan đến vấn đề được đặt ra trong đề bài. Ý tưởng đó có thể được tìm kiếm thông qua nhiều kênh thông tin qua quan sát từ thực tế đời sống hằng ngày, qua đọc sách, báo, internet… Để có được những ý tưởng hay, sâu sắc, ngoài việc tùy thuộc vào vốn sống, trải nghiệm và sự tinh tế, nhạy cảm riêng của từng HS, GV có thể sử dụng nhiều biện pháp cụ thể để hỗ trợ người học. Đó có thể là hệ thống các câu hỏi có tính chất gợi mở, ví dụ – Nhân vật/ hình ảnh/ chi tiết/ tình huống này gợi cho bạn nghĩ đến ai/ điều gì bạn đã gặp/ nghe/ chứng kiến trong thực tế? – Vấn đề được đặt ra trong tác phẩm có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc sống hiện nay? – Trách nhiệm của bản thân góp phần giải quyết những vấn đề được đặt ra trong tác phẩm? Các câu hỏi như vậy cũng có thể được thiết kế lồng ghép trong các dạng bài tập khác nhau phiếu/ sơ đồ/ biểu bảng… trong quá trình lên lớp ở cả ba phân môn Giảng văn, Tiếng Việt, Làm văn, qua đó giúp người học hình thành kỹ năng tìm kiếm, phát triển các ýtưởng liên quan đến thực tiễn cho bài viết của mình. 3. Kết luận Tìm kiếm, phát triển các ý tưởng trong bài văn nghị luận văn học là một khâu quan trọng trong tiến trình tạo lập kiểu văn bản này, góp phần tạo nên một văn bản có nội dung trọn vẹn, phong phú và sâu sắc. Để có được một hệ thống ý tưởng tốt, người viết cần có hiểu biết đầy đủ, toàn diện về tác phẩm đang khảo sát, đồng thời khai thác tốt các kênh thông tin như các văn bản, vấn đề có liên quan với tác phẩm đó từ các tác phẩm khác và từ trong thực tiễn, từ những trải nghiệm sống của bản thân… Với những định hướng về cách thức tìm ý tưởng cho văn bản nghị luận văn học đã đề cập trong bài viết này, người học sẽ có những định hướng nhất định về nguồn ý tưởng cũng như cách thức tìm kiếm các ý tưởng đó để tự áp dụng vào quá trình tạo lập văn bản. Trong quá trình người học rèn luyện để hình thành kỹ năng này, GV có thể hỗ trợ tích cực cho họ thông qua việc hướng dẫn bằng hệ thống các câu hỏi, bài tập có tác dụng gợi mở cho người học con đường và cách thức tìm kiếm các ý tưởng thông qua nhiều kênh thông tin khác nhau. Đối với những người học còn mơ hồ về vấn đề này, những gợi mở đó thật sự có vai trò rất quan trọng. Nhìn chung, những đề xuất được nêu ra trong bài viết cũng chỉ mới dừng lại ở những nghiên cứu ban đầu. Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý đồng nghiệp để những ý tưởng của mình ngày càng hoàn thiện hơn, vận dụng có hiệu quả nhất vào việc hỗ trợ người học rèn kỹ năng tạo lập văn bản nghị luận văn học nói riêng và tạo lập văn bản trong nhà trường nói chung. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Hồng Nam – Trần Nguyên Hương Thảo 2017, “Dạy tạo lập văn bản dựa trên tiến trình – Những bài học kinh nghiệm cho dạy tạo lập văn bản ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, tập 14, số 4b 2017, tr. 116-126. 2. PGS. TS. Nguyễn Thị Hồng Nam – TS. Dương Thị Hồng Hiếu 2016, Giáo trình Phương pháp dạy đọc văn bản, Nxb Đại học Cần Thơ. Nguồn Tạp chí Khoa học – Đại học Đồng Nai, số 14 – 2019 Thánh Địa Việt Nam Học
TÌM Ý VÀ LẬP DÀN Ý CHO BÀI VĂN NGHỊ LUẬN1 tiếtA/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT- Nắm được pp tìm ý, lập dàn ý và nhận biết được các lỗi về lập dàn ý của bài Có kĩ năng tìm ý và lập dàn ý cho bài PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH- Nêu khái niệm, dẫn chứng, trao đổi, đàm thoại giữa thầy và trò, trò và NỘI DUNG BÀI DẠY1. On định lớp kiểm tra ss,vs, trật Kiểm tra bài cũ Nhắc lại nội dung bài học trước về cách hiểu cách tìm ý, lập dàn Bài mới 2 trang kidphuong 2710 0 Download Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Ngữ văn Tìm ý và lập dàn ý cho bài văn nghị luận 1 tiết", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênTÌM Ý VÀ LẬP DÀN Ý CHO BÀI VĂN NGHỊ LUẬN 1 tiết A/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT Nắm được pp tìm ý, lập dàn ý và nhận biết được các lỗi về lập dàn ý của bài vnl. Có kĩ năng tìm ý và lập dàn ý cho bài VNL. B/ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH Nêu khái niệm, dẫn chứng, trao đổi, đàm thoại giữa thầy và trò, trò và trò. C/ NỘI DUNG BÀI DẠY Oån định lớp kiểm tra ss,vs, trật tự. Kiểm tra bài cũ Nhắc lại nội dung bài học trước về cách hiểu cách tìm ý, lập dàn ý. 3. Bài mới Hoạt động của thầy Hoạt động của trò Nội dung cần đạt - Đọc và trả lời khái niệm Ý trong bài văn NL là gì? - Gv hướng dẫn hs đọc sgk. - Tìm hiểu đề 1. Gv ghi bảng. - Tìm hiểu đề 2. GV ghi bảng. - HD hs đọc sgk. - HD HS đọc sgk. - Nêu các nd chính? - HD hs thực hành theo đề sgk. - Hs trả lời. - Hs theo dõi sgk. - Hs theo dõi sgk. - Hs theo dõi sgk. - Hs theo dõi sgk. - Hs trả lời. I/ Tìm ý cho bài VNL - ý trong bài vnl là hệ thống luận điểm, luận cứ, với các cấp độ khác nhau. - Có nhiều cách tìm ý khác nhau, ở đây ta thường tiến hành 2 bước b1 Dựa vào y/c, chỉ dẫn của đề; b2 Tìm ý nhỏ bằng cách đặt ra câu hỏi và trả lời. VD Đề 1 Ptích những đóng góp của NC đv VHVN giai đoạn 1930 – 1945. B1 Xác định trọng tâm của đề. B2 Đặt câu hỏi và trả lời. Xem sgk. Đề 2 Phải chăng Cái nết đánh chết cái đẹp? B1 Xác định trọng tâm. B2 Đặt câu hỏi và tìm cách trả lời. II/ Lập dàn ý cho bài văn nghị luận - Tuỳ vào đề, đối tượng cần thuyết phục và cách lập luận mà người viết có thể sắp xếp những dàn ý khác nhau. Xem ND trong sgk. III/ Những lỗi thường mắc về tìm ý và lập dàn ý Lạc ý Thiếu ý Lặp ý Yù lộn xộn IV/ Thực hành Các đề bài trong sgk. 4. Củng cố Nêu một số yêu cầu chính của việc tìm ý và lập dàn ý. 5. Hướng dẫn học bài tìm ý và lập dàn ý cho đề số 4 trong sgk. Tài liệu đính kèmtim y lap dan y cho bai
Luyện tập phân tích đề, lập dàn ý cho bài văn nghị luận Mời các em học sinh tham khảo thêm Hướng dẫn soạn bài Luyện tập phân tích đề, lập dàn ý cho bài văn nghị luận I. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Phân tích đề là xác định các vấn đề sau Nội dung trọng tâm của bài viết Các thao tác lập luận chính cần sử dụng giải thích, chứng minh, phân tích…; kết hợp các phương thức biểu đạt Phạm vi tư liệu cần huy động 2. Tìm ý là xác định các ý văn cho bài văn nghị luận Có thể thực hiện việc tìm ý bằng cách đặt ra các câu hỏi và tự trả lời rồi từ câu trả lời xác định ý văn. Sau đó, phân loại, sắp xếp tạo thành hệ thống ý lớn, ý nhỏ cho bài viết. 3. Lập dàn ý là triển khai, sắp xếp các ý theo một trật tự nhất định, hình thành cấu trúc bài viết. Dàn ý của bài văn nghị luận gồm ba phần Mở bài – ý 1 – ý 2 Thân bài – ý 1 + ý 1a + ý 1a1 nếu có + ý 1a2 nếu có + ý 1b + ý 1b1 nếu có + ý 1b2 nếu có – ý 2 +ý 2a + ý 2a1 nếu có + ý 2a2 nếu có + ý 2b + ý 2b1 nếu có + ý 2b2 nếu có Kết bài – ý 1 – ý 2 II. RÈN KĨ NĂNG Các đề bài luyện tập Đề 1. Trái đất sẽ ra sao nếu thiếu đi màu xanh của những cánh rừng? Đề 2. Các Mác nói “Mọi tiết kiệm, suy cho cùng là tiết kiệm thời gian”. Anh chị hãy giải thích và làm sáng tỏ câu nói trên. Đề 3. Từ văn bản Cha tôi của Đặng Huy Trứ, anh chị hãy phát biểu quan niệm về việc đỗ- trượt trong thi cử đối với bản thân. Phân tích đề Nội dung trọng tâm Các thao tác lập luận chính Phạm vi tư liệu Đề 1 Vai trò của rừng trong cuộc sống. Giải thích, phân tích, chứng minh. Những dẫn chứng từ thực tế. Đề 2 ý nghĩa và tầm quan trọng của việc tiết kiệm thời gian. Giải thích, phân tích, chứng minh. Những dẫn chứng thực tế từ bản thân, cuộc sống. Đề 3 Quan niệm về việc đỗ – trượt trong thi cử đối với bản thân và tầm quan trọng của vấn đề đối với sự thành đạt của một con người. Phân tích kết hợp phương thức tự sự, biểu cảm. Văn bản Cha tôivà dẫn chứng từ thực tế bản thân, cuộc sống. Luyện tập phân tích đề, lập dàn ý cho bài văn nghị luận 2. Tìm ý Tìm ý cho các đề văn trên dựa vào các câu hỏi sau Đề 1 Rừng là gì? Rừng là một hệ sinh thái, trong phạm vi đề bài là các loại cây cối lâu năm trên một diện tích rộng Rừng Amazôn, rừng lá kim, rừng U Minh, rừng Việt Bắc, … Rừng mang lại cho trái đất những lợi ích gì? Về môi trường, kinh tế, sức khoẻ…? Lợi ích của rừng cân bằng sinh thái Cung cấp oxi, là lá phổi xanh của trái đất, chống xói mòn, lũ lụt, …; cung cấp nhiều tài nguyên quý báu Gỗ, thảo dược, than đá, …; tạo quang cảnh thiên nhiên trong lành, thanh bình, … Thực trạng màu xanh của rừng đã và đang bị huỷ hoại, tàn phá ra sao? Thực trạng diện tích rừng giảm mạnh trong nhiều năm qua ở nước ta từ 75% diện tích xuống còn hơn 20% do bị con người chặt phá bừa bãi, cháy rừng, … Hậu quả và nguyên nhân của thực trạng trên? Hậu quả mất cân bằng sinh thái sạt lở, xói mòn đất, thủng tầng ôzôn…; tổn hại kinh tế… Nguyên nhân do lòng tham, sự vụ lợi của con người; do hiểu biết nông cạn, bất cẩn, … Giải pháp? Giải pháp trước mắt xử lí những vi phạm về bảo vệ rừng; tiến hành trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc, … Giải pháp lâu dài tuyên truyền, xây dựng ý thức trồng và bảo vệ rừng; hoàn thiện luật trồng và bảo vệ rừng… Đóng góp của bản thân để giữ gìn màu xanh của rừng? Tham gia bảo vệ rừng, trồng cây gây rừng, … Đề 2 Tiết kiệm là gì? Tiết kiệm là sử dụng, chi tiêu, … vừa đủ, đúng mực. Tiết kiệm để làm gì? Tiết kiệm thời gian là gì? Tại sao nói “Mọi tiết kiệm suy cho cùng là tiết kiệm thời gian”? Tiết kiệm để giảm tối tối đa sức lực, tiền bạc, … của con người. Tiết kiệm thời gian là để trong thời gian ngắn nhất làm được khối lượng công việc lớn nhất từ đó tiết kiệm được sức lực tiền bạc của con người. Nếu biết tiết kiệm thời gian thì sẽ tiết kiệm được sức lực, làm ra được nhiều sản phẩm phục vụ cuộc sống nên có thể nói Mọi tiết kiệm suy cho cùng là tiết kiệm thời gian. Câu nói của Mác đã được thể hiện như thế nào trong cuộc sống? Ý nghĩa thực tiễn của câu nói trên trong thế giới hiện đại? Trong quá trình phát triển, con người không ngừng cải tiến công cụ lao động nhằm nâng cao năng suất lao động. Mỗi sáng kiến kinh nghiệm, mỗi phát minh đều nhằm đạt đích làm sao trong khoảng thời gian ngắn nhất có thể làm ra nhiều nhất các sản phẩm có chất lượng. Tiết kiệm thời gian trong mọi công việc là cách tốt nhất để năng cao chất lượng cuộc sống. Dẫn chứng lao động thủ công mất hai ngày làm xong một sản phẩm; sử dụng máy móc hiện đại chỉ hai giừ làm ra mười sản phẩm; có giống lúa trồng 4 tháng mới thu hoạch, có giống lúa chỉ trồng 3 tháng đã có thể thu hoạch mà năng suất lại cao hơn,… Nhịp sống hiện đại đòi hỏi con người phải năng động, nhanh nhẹn, phải cùng một lúc làm được nhiều việc,… Do đó, con ngơừi trong thế giới hiện đại càng phải tiết kiệm thời gian . Mỗi người cần làm gì để tiết kiệm thời gian? Làm việc có kế hoạch, khoa học, luôn nỗ lực trong học tập, lao động, không lãng phí thời gian vào những việc vô bổ. Đề 3 Đọc lại văn bản Cha tôi và tìm ý theo các câu hỏi sau Nội dung của văn bản Cha tôi là gì? Quan niệm về đỗ – trượt trong thi cử của Đặng Văn Trọng là gì? Điều khác lạ, mới mẻ trong quan điểm của người cha? ý kiến của em về quan niệm trên? Quan niệm của số đông mọi người về việc đỗ – trượt trong thi cử hiện nay theo sự hiểu biết của bản thân? Quan niệm của bản thân? + Về thi cử + Về việc đỗ – trượt Bài học rút ra từ câu chuyện của Đặng Huy Trứ? Lập dàn ý Đề 1 Mở bài – Giới thiệu khái quát về vai trò và ý nghĩa của rừng trong cuộc sống. Thân bài – Giá trị, lợi ích của rừng + Rừng là lá phổi xanh duy trì sự sống trên trái đất + Rừng là kho tàng tài nguyên của quốc gia + Rừng là địa điểm du lịch hấp dẫn, … – Rừng đang bị tàn phá + Thực trạng diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, diện tích đồi trọc ngày càng tăng, … + Nguyên nhân bất cẩn, thiển cận, vụ lợi, … – Giải pháp để cứu rừng + Trước mắt + Lâu dài Kết bài – Cảm xúc của bản thân – Mong ước của bản thân Đề 2 Mở bài – Tiết kiệm là một vấn đề luôn được xã hội quan tâm. – Giới thiệu, trích dẫn câu nói của Mác “Mọi tiết kiệm suy cho cùng là tiết kiệm thời gian”. Thân bài – Khái niệm tiết kiệm – Tiết kiệm giúp con người giảm tối đa sức lực và tiền bạc – Tiết kiệm thời gian là sử dụng thời gian ít nhất để làm được khối lượng công việc lớn nhất – Biểu hiện câu nói của Mác trong thực tế + Xã hội không ngừng cải tiến công cụ lao động, KHKT + Mỗi cá nhân học tập, lao động không ngừng – Ý nghĩa thực tiễn của câu nói + Tiết kiệm thời gian giúp xã hội phát triển nhanh. + Tiết kiệm thời gian giúp cá nhân đạt hiệu quả cao trong công việc, xây dựng nếp sống tốt. – Mỗi cá nhân cần tiết kiệm thời gian bằng cách + Làm việc có kế hoạch, khoa học + Tránh hưởng thụ quá đà Kết bài – Tiết kiệm thời gian là một đức tính tốt đẹp của con người – Mỗi cá nhân cần biết sắp xếp thời gian hợp lí để tiết kiệm thời gian, mang lại hiệu quả cao nhất trong công việc – Tiết kiệm thời gian là cách tốt nhất để năng cao chất lượng cuộc sống. Đề 3 Mở bài – Giới thiệu văn bản Cha tôi của Đặng Văn Trọng – Đánh giá khái quát về quan niệm đỗ – trượt của ngưới cha thể hiện trong đoạn trích. Thân bài – Thái độ và cách ứng xử của người cha trước các tình huống đỗ – trượt của con trai. + Lo lắng khi con trai đỗ đạt quá dễ dàng. Ông coi trọng việc đỗ đạt song theo ông, thi cử là quá trình khổ luyện. + Đau lòng khi con trai bị đánh hỏng nhưng ông vẫn tỏ ra rất bình thường để không làm con nản chí. – Quan niệm của người cha việc đỗ – trượt trong thi cử là chuyện khó tránh. Đỗ đạt rất quan trọng với sự nghiệp của con người nhưng không phải là tất cả. Học để thành người tốt, người có ích chứ không phải là chỉ để làm quan. – Đánh giá đây là một quan niệm rất tiến bộ và rất nhân văn. – Quan niệm của bản thân về đỗ – trượt trong thi cử là gì? + Đỗ đạt trong học hành là ước mơ và nguyện vọng của tất cả mọi người. Học tập và rèn luyện là để thi đỗ, để có việc làm tốt, để làm việc có ích; đỗ đạt không được kiêu căng. + Nhưng nếu trượt thì cũng không nản. Đỗ đạt và học cao không phải là con đường duy nhất. Học để làm người chứ không phải chỉ để làm công việc nhàn hạ hay có vị trí trong xã hội, … + Phê phán một số quan niệm cực đoan về đỗ trượt Quá coi trọng việc đỗ đạt; Không có ý chí học tập và vươn lên trong cuộc sống. Kết luận Bài học rút ra cho bản thân.
tìm ý cho bài văn nghị luận